Xử lý sự cố bộ nhớ và các chế độ truyền DMA Parallel ATA

Các vấn đề của bộ nhớ có thể gây khó khăn khi giải quyết. Trước hết, bộ nhớ máy tính vẫn còn bí ẩn đối với mọi người bởi vì nó là một loại “ào" khó hiểu thấu. Khó khăn khác là các sự cố của bộ nhớ có thể liên tục và thường giống các vấn đề với các vùng khác của hệ thống, thậm chí với phần mềm. Phần này đưa ra các bước xử lý sự cố đơn giản bạn có thể thực hiện nếu bạn nghi ngờ bộ nhớ của mình có vấn đề.

Xử lý sự cố bộ nhớ

Để xử lý sự cố bộ nhớ, trước hết bạn cần một số chương trình kiểm tra chuẩn đoán bộ nhớ. Bạn đã có một vài chương trình mà có thể bạn không biết. Mỗi BIOS bo mạch chủ có một chuẩn đoán bộ nhớ trong POST chạy khi bạn vừa bật hệ thống. Trong hầu hết trường hợp, bạn cũng nhận được một chuẩn đoán bộ nhớ trong một đĩa CD tiện ích đi kèm theo hệ thống. Nhiều chương trình chuẩn đoán thương mại đang có trên thị trường và hầu hết tất cả chúng đều có chương trình kiểm tra bộ nhớ.

Xử lý sự cố bộ nhớ

Khi POST chạy, nó không chi kiểm tra bộ nhớ mà còn đếm bộ nhớ số đếm được so sánh với số được tính lần cuối khi BIOS Setup chạy; nếu khác nhau, một thông báo lỗi được đưa ra. Nga) khi POST chạy, nó ghi một khuôn mẫu dữ liệu đến tất cả các vị trí bộ nhớ trên hệ thống và đọc lại các khuôn mẫu này để xác minh là bộ nhớ đang hoạt động. Nếu bất kỳ lỗi bộ nhớ nào bị phát hiện, bạn thấy hoặc nghe một thông báo. Các thông báo âm thanh (tiếng bíp) được sử dụng khi các lỗi then chốt hoặc "tai hại" xảy ra trong các vùng quan trọng đối với sự vận hành của hệ thống. Nếu hệ thống truy xuất đủ bộ nhớ để ít nhất cho phép video hoạt động, bạn thấy các thông báo lỗi thay vì nghe các mã bíp.

Nếu hệ thống của bạn tạo ra nó thông qua POST mà không có các chi định lỗi bộ nhớ, có thể không là lỗi thuộc phần cứng bộ nhớ hoặc có thể POST không có khả năng phát hiện sự cố. Các lỗi bộ nhớ không liên tục thường không được phát hiện trong quá trình POST, và những khiếm khuyết phần cứng khó thấy khác có thể làm cho POST khó phát hiện. POST được thiết kế để chạy nhanh, vì vậy các kiểm tra gần như không được thấu đáo giống như chúng có thể. Đó là lý do tại sao bạn thường xuyên phải khởi động từ đĩa chuẩn đoán độc lập và chạy chương trình chuẩn đoán phần cứng thực sự để thực hiện nhiều hơn các cuộc kiểm tra Phần lớn bo mạch chủ hỗ trợ ATA-2 hoặc lớn hơn đều có hai đầu nối ATA trên bo mạch. Hầu hết các chipset bo mạch chủ đều bao gồm giao diện ATA trong các thành phần South Bridge mà trong phần lớn hệ thống được liên kết vào bus PCI.

Các bo mạch 486 và một số bo mạch Pentium đầu tiên chỉ có đầu nối chính chạy thông qua bus nội tại PCI của hệ thống. Đầu nối thứ hai trên những bo mạch này thường chạy thông qua bus ISA và do đó hỗ trợ chỉ lên tới hoạt động Mode 2.

Khi được truy vấn với một lệnh Identify Drive, một ổ cứng trở về thông tin các chế độ PIO và DMA mà nó khả năng sử dụng. Phần lớn các BIOS được mở rộng tự động đặt chế độ đúng để phù hợp những khả năng của ổ đĩa. Nếu đặt một chế độ nhanh hơn ổ đĩa có thể kiểm soát, sự sụp dữ liệu xảy ra.

Các ổ đĩa ATA-2 và mới hơn cùng thực hiện Block Mode PIO. Nghĩa là chúng dùng các lệnh Đọc/Ghi gấp bội làm giảm tối đa số lượng ngắt được gửi đến bộ xử lý chu. Điều này làm giảm chỉ phí và các chuyển giao kết quả thậm chí nhanh hơn.

Các chế độ truyền DMA Parallel ATA

Các ổ đĩa ATA cũng hỗ trợ các sự truyền truy cập bộ nhớ trực tiếp (DMA: direct memory access). DMA nghĩa là dữ liệu được truyền trực tiếp giữa ổ đĩa và bộ nhớ không dùng CPU như một phương tiện trung gian, trái với PIO. Điều này có ảnh hưởng giảm tải việc truyền dữ liệu từ bộ xử lý, ảnh hưởng cho phép bộ xử lý làm nhiều việc khác trong khi việc truyền vẫn thực hiện.

Có hai loại truy cập bộ nhớ trực tiếp phân biệt: DMA singleword (8-bit) và DMA multiword (16-bit). Các chế độ DMA Singleword được bỏ đi trong đặc điểm kỹ thuật ATA-3 và các đặc điểm kỹ thuật sau đó vì đã lỗi thời. Các chế độ DMA đôi khi được gọi là các chế độ ATA bus chủ (busmaster ATA) bởi vì chúng dùng một thiết bị tiếp hợp chủ hỗ trợ chuẩn bus (bus-mastering). Thông thường DMA dựa vào bộ điều khiển DMA kế thừa trên bo mạch để thực hiện nhiệm vụ phức tạp: phân xử, tác động bus hệ thống và truyền dữ liệu. Trong trường hợp DMA mẫn chuẩn bus. Tất cả được thực hiện bởi chip logic tốc độ cao hơn trong giao diện tiếp hợp chủ (cũng ở trên bo mạch chủ).

Các hệ thống dùng Intel PI1X (PCI IDE ISA eXcelerator) và sau này là các Chip South Bridge (hoặc tương đương) có khá năng hỗ trợ ATA bus chủ. Các chế độ ATA bus chủ singlew ord, doublew ord và các tốc độ truyền được thề hiện trong Bảng 1 và 2.

Bảng 1: Các chế độ Singleword (8-bit) DMA và các tốc độ truyền

Chế độ 8- bit DMA Dung lượng Bus Tốc độ truyền (MBps)(Bit) Tốc độ chu kỳ (ns) Tốc độ Bus (MHz) Số chu kỳ/ Đồng hồ Tốc độ truyền (MBps) Đặc điểm kỹ thuật AIA
0 16 960 1.04 1

1

2.08

ATA-I1*1
1 16 480 2.08 1 4.17 ATA-I1'1
2 16 240 4.17 1 8.33 ATA-I1’1

Các chế độ Singleword (8-bit) DMA bị bó đi bắt đầu từATA-3 và sau này.

Bảng 2: Các chế độ Multiword (16-bit) DMA và các tốc độ truyền

Chế độ 16-bit DMA Dung lượng Bus (Bit) Tốc độ chu kỳ (ns) Tốc độ Bus (MHz) Số chu kỳ/ Đồng hồ Tốc độ truyền (MBps) Đặc điểm kỹ thuật ATA
0 16 480 2.08 1 4.17 ATA-1
1 16 150 6.67 1 13.33 ATA-21"1
2 16 120 8.33 1 16.67 ATA-21*1

Tìm hiểu thêm các loại màn hình!